Skip to main content
Đáp án đề thi THPT Quốc Gia 2021

Soạn bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới siêu ngắn

Soạn bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới siêu ngắn

Trả lời câu 1 (trang 30 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

- Tác giả viết bài này vào thời điểm chuyển tiếp giữa hai thế kỉ (thế kỉ XX – XXI).

- Vấn đề: việc chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, thiên niên kỉ mới của thế hệ trẻ Việt Nam.

- Nhiệm vụ : nhìn nhận những hạn chế cần khắc phục để không bị tụt hậu và bắt kịp bước đi của thời đại. Đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận nền kinh tế tri thức.

Trả lời câu 2 (trang 30 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Trình tự lập luận:

- Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con người.

- Bối cảnh thế giới và nhiệm vụ của đất nước ta.

- Những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam.

- Nhiệm vụ cả thế hệ trẻ khi bước vào thế kỉ mới. 

Trả lời câu 3 (trang 30 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

“Sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất”. Vì con người là chủ thế mọi thứ, con người sáng tạo và phát minh ra những yếu tố phục vụ cho xã hội. Bởi vậy chuẩn bị bản thân con người là cần thiết nhất.

Trả lời câu 4 (trang 30 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

- Những điểm mạnh:

+ Thông minh, nhạy bén với cái mới;

+ Cần cù, sáng tạo;

+ Tính cộng đồng đoàn kết.

- Những điểm yếu:

+ Kiến thức có chỗ hổng, yếu về thực hành;

+ Thiếu sự tỉ mỉ, thiếu kế hoạch, chưa có thói quen tôn trọng quy trình công nghệ;

+ Chưa quen cường độ khẩn trương;

+ Còn đố kị, sống theo thứ bậc, coi thường kinh doanh, khôn vặt, sùng ngoại, chưa coi trọng chữ tín,…

Trả lời câu 5 (trang 30 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

- Nhận xét của tác giả:

+ Điểm giống: nêu lên những mặt mạnh của người Việt Nam.

+ Điểm khác: chỉ ra và phân tích những điểm yếu kém của người Việt Nam.

- Thái độ của tác giả: tôn trọng sự thật khách quan, quan tâm đến việc nhận thức toàn diện, không tự mãn nhưng cũng không tự ti, giúp thế hệ trẻ vững tin bước vào thế kỉ mới.

Trả lời câu 6 (trang 30 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Trong văn bản, tác giả đã sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ (nước đến chân mới nhảy, liệu cơm gắp mắm, trâu buộc ghét trâu ăn, bóc ngắn cắn dài...) -> làm cho cách nói cô đọng, có hình ảnh, đồng thời gần gũi với những cách nghĩ, cách cảm của chúng ta. 

Luyện bài tập vận dụng tại đây!

Tổng ôn tập MÔN VĂN Lớp 9